Để chủ động phòng chống bệnh thủy đậu, cần lưu ý:
Nguyên nhân lây truyền bệnh thủy đậu
Bệnh thuỷ đậu lây theo đường hô hấp, người mang vi-rút thủy đậu nói, hắt hơi, ho..., vi-rút theo nước bọt, nước mũi bắn ra môi trường, người lành hít thở chung bầu không khí sẽ bị lây bệnh. Ngoài ra, bệnh còn lây lan qua việc va chạm, tiếp xúc với mụn nước, ban ngứa của người bệnh; với quần áo, ga trải giường bị nhiễm chất dịch từ nốt thủy đậu, từ miệng hay mũi của người bệnh.
Thời gian ủ bệnh
Bệnh phát triển trong vòng 10-21 ngày sau khi tiếp xúc với người bệnh. Do đó, một người chưa được tiêm phòng vắc-xin thuỷ đậu mà có tiếp xúc với bệnh nhân, nếu tiêm vắc-xin ngay trong vòng 3 ngày thì vắc-xin vẫn có thể phát huy tác dụng bảo vệ giúp phòng ngừa thủy đậu cho người tiếp xúc.
Triệu chứng của bệnh
Khởi phát bệnh thường đột ngột với triệu chứng nổi mụn nước. Mụn nước xuất hiện rất nhanh, ở vùng đầu mặt, chi và thân, trong vòng 12-24 giờ có thể xuất hiện toàn thân. Đường kính mụn nước từ l-3mm, những trường hợp nặng mụn nước sẽ to hơn. Mụn nước chứa dịch trong, tuy nhiên khi nhiễm thêm vi trùng (bội nhiễm) mụn nước sẽ chuyển đục do chứa mủ. Các triệu chứng kèm theo thông thường là sốt nhẹ, nhức đầu và mệt mỏi. Với trẻ nhỏ thường kèm sốt nhẹ, biếng ăn. Ở người lớn hay trẻ lớn thường kèm sốt cao, đau đầu, đau cơ, nôn ói.
Bệnh kéo dài từ 7-10 ngày nếu không có biến chứng, các mụn nước sẽ khô dần, bong vảy, thâm da, không để lại sẹo (trừ trường hợp bị nhiễm trùng). Ban ngứa có thể là dấu hiệu lui bệnh.
Biến chứng
Thủy đậu là một bệnh lành tính, ít có những triệu chứng nặng nề. Tuy nhiên, bệnh có thể có những biến chứng từ nhẹ đến rất nghiêm trọng.
Biến chứng nhẹ của bệnh là nhiễm trùng da nơi có mụn nước, trường hợp nặng hơn vi trùng có thể xâm nhập từ mụn nước vào máu gây nhiễm trùng huyết. Đặc biệt, có thể có các biến chứng rất nặng như: viêm phổi, viêm não... có thể nguy hiểm đến tính mạng, hay để lại di chứng sau này.
Sau khi bệnh nhân đã khỏi bệnh, vi-rút thuỷ đậu vẫn có thể còn tồn tại trong các hạch thần kinh dưới dạng bất hoạt (ngủ đông). Nhiều năm sau đó (10, 20, hay 30 năm sau), khi có điều kiện thuận tiện như sức đề kháng cơ thể kém hay có yếu tố khác thì vi-rút sẽ tái hoạt động trở lại và gây ra bệnh Zona (giời leo).
Phụ nữ mang thai nếu mắc thủy đậu sẽ rất nguy hiểm vì sẽ dễ bị các biến chứng nặng như viêm phổi... Đặc biệt mắc thủy đậu ở 3 tháng đầu của thai kỳ, vi-rút có thể gây sẩy thai hay thủy đậu bẩm sinh ở trẻ sơ sinh với nhiều dị tật như: đầu nhỏ, tay chân co rút, bại não, sẹo bẩm sinh... Còn nếu thai phụ mắc trong những ngày sắp sinh hay sau sinh, trẻ bị lây bệnh sẽ diễn biến rất nặng với mụn nước nổi nhiều và dễ bị biến chứng viêm phổi.
Cách phòng chống bệnh thuỷ đậu
Cách phòng bệnh tốt nhất là tiêm phòng. Hiện nay, vắc xin chống thuỷ đậu giúp cơ thể tạo kháng thể chống lại vi rút có hiệu quả cao và lâu dài. Vắc xin được áp dụng đối với các đối tượng sau: trẻ em từ 12-18 tháng tuổi tiêm 1 mũi; trẻ từ 19 tháng - 13 tuổi chưa từng bị thuỷ đậu tiêm 1 mũi; trẻ em trên 13 tuổi và người lớn chưa từng bị thủy đậu tiêm 2 mũi, cách nhau từ 4-8 tuần.
Hiệu quả bảo vệ của vắc xin thủy đậu có tác dụng lâu bền. Nếu đã được tiêm phòng vắc xin thủy đậu thì 80-90% có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng còn khoảng 10% có thể bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ mắc ở thể nhẹ, với rất ít nốt thủy đậu (khoảng dưới 50 nốt), và thường không bị biến chứng./.